Hồ sơ mật: Giải đáp bí mật bức thư gửi hậu thế ở thủy điện Hòa bình
Nhiều người lên thăm thủy điện Hòa Bình về có kể lại với tôi rằng, bức thư đó đến năm 2100, nhà máy hết hạn sử dụng phải phá đi thì lúc đó mới được mở lá thư ra xem, nó dự đoán được tình hình đất nước. Có người lại bảo nó mang yếu tố tâm linh, kỳ bí, làm bùa trấn yểm, có người lại nói đó là bức thư chứa đựng những bí mật trong lòng thủy điện Hòa Bình. Nói chung, có rất nhiều sự "tam sao thất bản" về bức thư đó, đẩy câu chuyện lên cho thêm phần kỳ bí. Vậy thực hư ra sao?
Nhà máy Thủy điện Hoà Bình được xây dựng tại hồ Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình, trên dòng sông Đà thuộc miền bắc Việt Nam. Trước khi nhà máy thủy điện Sơn La khánh thành đây là nhà máy thủy điện lớn nhất Việt Nam và Đông Nam Á. Nhà máy do Liên Xô giúp đỡ xây dựng và vận hành.
Công trình khởi công xây dựng ngày 6 tháng 11 năm 1979, khánh thành ngày 20 tháng 12 năm 1994.
Ngày 19/10/2007, Ông Đào Văn Hưng, Chủ tịch Hội đồng quản trị EVN đã ký Quyết định số 845/QĐ-EVN-HĐQT về việc phê duyệt Quyết toán vốn đầu tư công trình Nhà máy Thủy điện Hoà Bình với giá trị là: 1.904.783.458.926 đồng.
Theo thiết kế kỹ thuật được Chính phủ Việt Nam phê duyệt, 8 tổ máy phát điện và tất thảy hệ thống nhà điều hành sẽ được đặt ngầm trong lòng núi. Nói cách khác, Thủy điện Hòa Bình sẽ là nhà máy thủy điện ngầm có công suất vào hàng lớn nhất thế giới. Để làm được nhà máy thủy điện ngầm, tháng 6/1981, ông Đồng Sĩ Nguyên - Bộ trưởng Bộ Xây dựng đã cử một đoàn 50 thực tập sinh sang Liên Xô 6 tháng học làm hầm thủy điện.
Thủy điện Hòa Bình |
Trong quá trình xây dựng thủy điện Hòa Bình,168 người đã hy sinh,trong đó có 11 công dân Liên Xô.Bia tưởng niệm những người đã hy sinh vẫn còn ở đây.
Tại sân Nhà truyền thống Thủy điện Hòa Bình có một khối bê tông hình thang, trên đó có tấm biển thép khắc chìm dòng chữ: "Nơi lưu giữ bức thư của những người xây dựng Thủy điện Hòa Bình gửi thế hệ mai sau. Thư được mở vào ngày 1-1-2100". "Kho lưu trữ" lá thư thực chất chỉ là một khối bê tông hình thang có cạnh đáy 2 mét, chiều cao 1,8 mét, cạnh trên 0,8 mét, nặng gần 10 tấn. Sau khi được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng và đồng chí Đỗ Mười đồng ý, lãnh đạo Tổng Công ty Xây dựng Nhà máy Thủy điện Hòa Bình mời một số nhà văn, nhà báo, nhà trí thức tham gia viết thư. Tuy nhiên, đồng chí Đỗ Mười cũng khuyên là vì Việt Nam chưa có tục lệ này, cho nên không được "chôn" vào lòng đập mà nên đặt ở chỗ nào trang trọng. Và thế là sau khi bàn bạc với chuyên gia Liên Xô, lãnh đạo tổng công ty quyết định đặt lá thư đó vào lòng khối bê tông. Lá thư hiện nay để trong khối bê tông là một công trình tập thể. Sau khi lá thư được hoàn chỉnh về nội dung, một cán bộ viết chữ đẹp được giao nhiệm vụ chép hai bản đó với tiếng Việt và tiếng Nga bằng mực Tàu.
Nửa năm mới soạn được bức thư
Sau khi diễn ra sau lễ ngăn sông Đà đợt I ông Bô-gô-tren-kô - Tổng chuyên viên Liên Xô đưa ra đề xuất về lá thư gửi hậu thế vì theo thông lệ ở Liên Xô và một số nước trên thế giới, những người xây dựng đập thủy điện thường viết một lá thư và bỏ vào một chiếc chai thủy tinh và chôn vào lòng đập và thường gọi là "lá thư gửi hậu thế". Thấy đây là ý tưởng cũng hay và mang màu... huyền thoại nên lãnh đạo Tổng Công ty đã báo cáo lên đồng chí Đỗ Mười, khi đó là Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Trưởng ban chỉ đạo xây dựng Thủy điện Hòa Bình.
Sau khi được đồng chí Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng và đồng chí Đỗ Mười cho phép,
lãnh đạo Tổng Công ty mời một số nhà văn, nhà báo, nhà tri thức tham gia
viết lá thư. Tuy nhiên, đồng chí Đỗ Mười cũng khuyên là vì Việt Nam
không có tục lệ này, cho nên không được "chôn" vào lòng đập mà đặt ở chỗ
nào trang trọng. Và thế là sau khi bàn bạc với chuyên gia Liên Xô quyết định đặt lá thư đó vào lòng khối bê tông.
Tổng Công ty xây dựng thủy điện Hòa Bình đứng ra tổ chức kêu gọi các nhân sĩ trí thức, nhà văn, nhà báo, những người máu nóng với công trình thủy điện Hòa Bình viết những bức thư dự thảo gửi đời mai sau (cả bằng tiếng Việt và tiếng Nga) để biên tập thành “Thư của những người xây dựng Thủy điện Hòa Bình gửi đời mai sau”. Số
lượng người tham gia viết khá nhiều trong đó có cả Bí thư đảng ủy Đoàn
chuyên gia Liên Xô, đồng chí Giaseplin. Để chọn lựa những lá thư hay
nhất Đảng ủy Tổng Công ty cử hẳn ra một nhóm soạn thảo, nhưng "rất bí
mật".
Tổng công ty đã nhận được rất nhiều thư của đông đảo cán bộ, chuyên gia, công nhân trực tiếp làm việc trên công trường, của các nhà văn, nhà báo, nhân sĩ trí thức trên mọi miền Tổ quốc.
Mất chừng nửa năm, ban tổ chức đã tập hợp, lựa chọn những đoạn hay nhất để thảo thành một bức thư. Nội dung của các bức thư gửi về đều nói đến sự quyết tâm, nỗ lực cũng như sự hy sinh to lớn của những người xây dựng thủy điện. Đồng thời, các bức thư cũng nhắc đến hậu phương vững chắc của cả nước đã đóng góp từ cây kim, sợi chỉ đến lương thực cho cán bộ, công nhân để xây dựng công trình này. Các bức thư cũng nhắc đến giai đoạn ta xây dựng nhà máy thủy điện lớn nhất Đông Nam Á và lớn nhất thế giới về công trình ngầm khi nhân dân ta cơm chưa đủ no, áo chưa đủ ấm mà vẫn quyết tâm làm bằng được.
Sao lại phải đến năm 2100 mới được mở?
Về việc này, có hai ý kiến giải thích.
Thứ
nhất, đã là thư gửi "thế hệ đời sau" thì có nghĩa là lúc đó, những
người sinh ra vào lúc Thủy điện Hòa Bình khởi công, có lẽ không còn mấy
người, và những công nhân, kỹ sư... tham gia xây dựng nhà máy cũng đã
thành người "thiên cổ" từ lâu. Vì là thư gửi thế hệ mai sau nên cần phải
lựa chọn những người không sinh ra, lớn lên ở thời điểm gắn lá thư ấy
(1983). Nếu chọn đúng 100 năm sau thì rất có thể nhiều người sinh năm
này vẫn còn sống, nên phải chọn hẳn sang năm 2100, bởi khó ai có thể
sống đến 117 tuổi được.
Thứ
hai, vào năm 2100, lớp bùn dưới lòng hồ đã dày thêm khoảng 56m, như vậy
là không thể phát điện được nữa. Cần phải cho nhà máy nghỉ ngơi để nạo
vét lòng hồ, hoặc phá bỏ nhà máy... Và lúc đó mới mở lá thư cho thế hệ
ngày đó biết ngày xưa, lớp cha ông đã lao động như thế nào.
Chọn... người trên trời để gắn ốc vít
Việc chọn người cầm tấm biển để bắt vít vào khối bê tông cũng được ban tổ chức lựa chọn kỹ càng. Theo đó, phải đảm bảo 8 tiêu chí: Có nam, có nữ, có già, có trẻ, có Việt Nam, có Liên Xô, có người dưới đất, có người... trên trời. "Sở dĩ chọn như vậy là vì dù sao, lá thư cũng mang yếu tố linh thiêng", ông Duy lý giải.Sau khi họp bàn, ban tổ chức quyết định chọn ông Bô-gô-tren-kô - Tổng chuyên viên Liên Xô, đại diện người già. Ông Vũ Mão, Bí thư thứ nhất Đoàn TNCS HCM đại diện cho người trẻ. Ông Ngô Xuân Lộc là Tổng chỉ huy người Việt Nam. Nhưng còn thiếu phụ nữ và "người trên trời". Ban đầu, Ban tổ chức dự tính chọn một trong hai người là chị Lê Thị Ngừng - nữ thợ lái máy xúc EKG 4,6 khối đầu tiên ở Việt Nam và nữ kỳ thủ vô địch thế giới môn cờ vua người Gru-zi-a. Nhưng cuối cùng lại chọn nữ phi hành gia vũ trụ thứ 2 của thế giới là Xa-vit-xkai-a. Như vậy đã đáp ứng đủ 8 tiêu chí trên.
"Chỉ một ngày sau lễ gắn tấm biển, chúng tôi nhận được tin 1 trong 4 cái vít đã bị ai đó tháo mất. Vậy là đành quyết định hàn cứng tấm biển đó vào khối bê tông như mọi người thấy khi lên thăm Nhà máy thủy điện Hòa Bình hiện nay"
Mực và giấy viết đều nhập từ Liên Xô Sau khi đã chọn được nội dung để viết bức thư gửi hậu thế, ban tổ chức lựa chọn người viết bức thư ấy. Ông Duy đã được chọn. Lý giải cho điều này, ông kể: "Năm 1967, tôi đang làm ở Vườn Quốc gia Cúc Phương, được cử đi học lớp vẽ bản đồ ở Cục Khảo sát đo đạc - Bộ Xây dựng đóng ở đồi Hốp, Vĩnh Yên. Thầy dạy tôi vẽ bản đồ là một trong những người viết giỏi nhất Bộ Xây dựng - thầy Phạm Nguyễn Tuân. Đó là lý do để tôi được chọn viết bức thư gửi hậu thế. Bởi bức thư được viết bằng mực tus (mực đen pha sẵn ra như mực tàu, chuyên dùng viết trên giấy can để vẽ bản đồ). Thư được viết trên một chất liệu không phai nhòe, tất cả được gửi từ Liên Xô sang. Bức thư được viết bằng cả tiếng Việt và tiếng Nga, dài chừng 1,5 trang đánh máy, tức là khoảng 500 - 700 từ".
Cuối tháng 1/1983, nhân dịp có đoàn đại biểu Đoàn TNCS Liên Xô sang giao lưu hữu nghị với Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, ban lãnh đạo Tổng công ty quyết định làm lễ công bố bức thư gửi hậu thế. Buổi lễ có sự tham dự của hàng vạn người, gồm lãnh đạo tổng công ty, chuyên gia, đoàn đại biểu thanh niên hai nước, công nhân và nhân dân Thị xã Hòa Bình. Bức thư được đọc bằng hai thứ tiếng. Phần tiếng Việt do ông Ngô Xuân Lộc - Tổng Giám đốc (thay ông Phan Ngọc Tường). Còn phần tiếng Nga do ông Za-xe-pi-lin đọc. Buổi công bố lá thư được Báo Nhân dân đưa tin trên số báo ra ngày 31/1/1983.
Đấy chỉ là lời những người trong cuộc kể lại, còn sự thật ra sao, hãy đợi đến 2100!
Liên kết tham khảo:
Liên kết tham khảo:
sao bạn có mấy thông tin này vậy?
ReplyDelete