Giải mã bếp không khói Hoàng Cầm- Những điều còn chưa biết
Các cụ thường nói "có lửa mới có khói", với điều kiện hiện nay thì ăn lẩu dùng bếp cồn hay bếp ga thì chắc chắn không có khói. Cơ mà, dùng bếp đun củi vẫn không có khói đúng như hồi còn các cụ nói câu kia đấy mới là cái làm nên giá trị đặc biệt của bếp Hoàng Cầm.
1. Tác giả là ai?
Lên google.com gõ "hoàng cầm" hoặc là " bếp hoàng cầm" sẽ ra kết quả 2 người đó là tướng Hoàng Cầm và nhà thơ Hoàng Cầm. Đại đa số chúng ta sẽ nghĩ chắc là vị tướng kia rồi, sau khi sáng tạo ra chiếc bếp huyền thoại đã cứu hàng trăm sinh mạng đã được phong tặng hàm tướng. Nhưng sự thật tác giả chiếc bếp nổi tiếng không phải vị tướng quân đội này và cũng không phải nhà thơ Hoàng Cầm với bài "Bên kia sông Đuống" nổi tiếng kia.
Người tạo nên bếp không khói là một con người hoàn toàn khác, hết sức bình dân, dung dị, ông là Thượng sỹ Hoàng Cầm (1916 - 1996) quê ở Nam Định, anh Tiểu đội trưởng nuôi quân thuộc Sư đoàn 308, Đại đoàn quân tiên phong.
1. Tác giả là ai?
Lên google.com gõ "hoàng cầm" hoặc là " bếp hoàng cầm" sẽ ra kết quả 2 người đó là tướng Hoàng Cầm và nhà thơ Hoàng Cầm. Đại đa số chúng ta sẽ nghĩ chắc là vị tướng kia rồi, sau khi sáng tạo ra chiếc bếp huyền thoại đã cứu hàng trăm sinh mạng đã được phong tặng hàm tướng. Nhưng sự thật tác giả chiếc bếp nổi tiếng không phải vị tướng quân đội này và cũng không phải nhà thơ Hoàng Cầm với bài "Bên kia sông Đuống" nổi tiếng kia.
Người tạo nên bếp không khói là một con người hoàn toàn khác, hết sức bình dân, dung dị, ông là Thượng sỹ Hoàng Cầm (1916 - 1996) quê ở Nam Định, anh Tiểu đội trưởng nuôi quân thuộc Sư đoàn 308, Đại đoàn quân tiên phong.
2. Hoàn cảnh ra đời
Khi đơn vị tham gia chiến dịch Hoàng Hoa Thám và chiến dịch Hòa Bình năm
1952, được tận mắt chứng kiến cảnh đồng đội bị thương vong nhiều, sức
khỏe giảm sút do máy bay địch oanh kích và điều kiện ăn uống không đảm
bảo. Hoàng Cầm nhận ra chiến tranh ngày càng khốc liệt. Bộ đội ta chiến
đấu, hy sinh không chỉ ở mặt trận giáp mặt quân thù mà hy sinh, thương
vong ngay cả khi về hậu cứ nghỉ ngơi, sinh hoạt. Nguyên nhân của việc
mất mát ấy có một phần do việc nấu ăn vì ban đêm thấy lửa ban ngày thấy khói. Rất nhiều thương vong của bộ đội xuất phát từ việc “khói bốc lên giữa rừng”, máy bay địch phát hiện đã trút bom đạn xuống. Tổ anh nuôi
của Hoàng Cầm và nhiều đơn vị khác phòng tránh bằng cách chuyển sang nấu
ăn ban đêm, khi máy bay địch tới thì dập lửa, dội nước, nhưng nhiều khi
vẫn không tránh kịp tai họa. Đang đun, dập lửa, cơm thường bị khê,
sống. Nấu ăn ban đêm, ban ngày cơm nguội lạnh, bộ đội ăn không đảm bảo
sức khoẻ.
Hoàng Cầm đã trăn trở ngày đêm suy nghĩ, mình phải làm một cái gì đó
giúp cho đồng đội giảm bớt thương vong. Một buổi sáng dạo bên bờ suối,
nhìn làn khói lượn lờ quanh mái bếp, Hoàng Cầm chợt nảy ra sáng kiến làm
một kiểu bếp có thể nấu nướng mọi thứ ban ngày mà không sợ máy bay địch
phát hiện. Sau nhiều ngày miệt mài nghiên cứu, vẽ sơ đồ một số kiểu
bếp, và nhiều lần làm thử nhiệm. Hoàng Cầm đào hàng chục cái bếp khác
nhau, với những kiểu bếp khoét sâu vào trong lòng đất có nhiều nhánh dẫn
khói giống như hang chuột. Làm xong anh đặt nồi lên từng cái bếp, chất
củi đun thử. Kết quả tạm được, nhưng lửa vẫn lộ, khói vẫn phảng phất bay
lên. Không nản chí Hoàng cầm lại hì hục đào hàng chục cái bếp khác nữa.
Lần này Hoàng Cầm đào các đường dẫn khói chẽ ra nhiều nhánh và dài gấp
đôi. Trên rãnh dẫn khói rải cành cây rồi đổ đất san phẳng. Phía trước
cửa bếp đào một hố sâu, trên lợp nilon hoặc lá vừa để đồ, vừa che ánh
lửa và có hầm chứa khói, hút lửa mạnh hơn.
Cuối cùng, Hoàng Cầm đã tạo ra một kiểu bếp như ý, bếp lò khoét vào sườn đồi hoặc đào sâu xuống với những đường rãnh giống như râu mực từ bếp lò bò đi khá xa, trên rãnh được lát bằng cành cây và phủ đất ẩm tạo thành những ống thoát khói. Từ trong lò tuôn ra, khói tỏa vào khắp các rãnh, bốc lên gặp lượt đất ẩm, bị lọc và cản lại, lan ra là là trên mặt đất, thoảng nhẹ nhàng như làn sương buổi sớm. Kiểu bếp này ngay sau đó đã được phổ biến rộng rãi đến các đơn vị và được anh em nuôi quân hoan nghênh.
Bếp do Hoàng Cầm sáng tạo rất phù hợp với bộ đội thời chiến, kín lửa, khói không bốc cao, anh nuôi nấu ăn cả ngày, cả tối, không sợ máy bay địch phát hiện. Bộ đội có cơm nóng, canh ngọt. Mỗi khi ém sát địch, anh nuôi vẫn nổi lửa đêm ngày. Tháng 10 năm 1952, đơn vị đã quyết định lấy tên người chiến sỹ sáng tạo ra để đặt tên bếp: Bếp Hoàng Cầm.
Cuối cùng, Hoàng Cầm đã tạo ra một kiểu bếp như ý, bếp lò khoét vào sườn đồi hoặc đào sâu xuống với những đường rãnh giống như râu mực từ bếp lò bò đi khá xa, trên rãnh được lát bằng cành cây và phủ đất ẩm tạo thành những ống thoát khói. Từ trong lò tuôn ra, khói tỏa vào khắp các rãnh, bốc lên gặp lượt đất ẩm, bị lọc và cản lại, lan ra là là trên mặt đất, thoảng nhẹ nhàng như làn sương buổi sớm. Kiểu bếp này ngay sau đó đã được phổ biến rộng rãi đến các đơn vị và được anh em nuôi quân hoan nghênh.
Bếp do Hoàng Cầm sáng tạo rất phù hợp với bộ đội thời chiến, kín lửa, khói không bốc cao, anh nuôi nấu ăn cả ngày, cả tối, không sợ máy bay địch phát hiện. Bộ đội có cơm nóng, canh ngọt. Mỗi khi ém sát địch, anh nuôi vẫn nổi lửa đêm ngày. Tháng 10 năm 1952, đơn vị đã quyết định lấy tên người chiến sỹ sáng tạo ra để đặt tên bếp: Bếp Hoàng Cầm.
3. Hiệu quả thực tế:
Từ khi ra đời cho tới nay, bếp Hoàng Cầm được sử dụng rộng rãi trong quân đội Việt Nam và là bắt buộc sử dụng ở tất cả các đơn vị. Với sáng kiến
này, bộ đội đã được ăn cơm nóng, có nước nóng để uống trong mùa đông,
các viện quân y dã chiến có nước nóng để sát trùng dụng cụ y khoa...
Sáng kiến này có giá trị lớn trong thực tiễn hoạt động hành quân, chiến
đấu và góp phần quan trọng giữ gìn sức khỏe cho bộ đội. Từ khi bếp Hoàng
Cầm ra đời các chiến sĩ nuôi quân không còn lo sợ máy bay địch nhòm ngó
mỗi khi nổi lửa, bộ đội ta không phải ăn cơm nguội do nấu vào ban đêm.
Bếp Hoàng Cầm đã góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn sức khỏe cho bộ
đội, đảm bảo quân số chiến đấu cao.
Bếp bảo đảm giữ được bí mật: quá trình nấu ăn ban đêm lửa
không hắt sáng ra ngoài, ban ngày khói không bị thoát lên thành cột khói đúng theo chủ trương "đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng”.;
Bảo đảm được an toàn: bếp vững chắc, không bị sụt lở trong
quá trình nấu ăn và hạn chế được sát thương do mảnh bom đạn, an toàn cho cả
người và vật chất; Đồng thời bảo đảm cấp nhiệt tốt: Bếp cháy tốt, cung cấp đủ nhiệt
cho quá trình nấu ăn thao tác thuận tiện.
Trong hồi ức “Đường tới Điện Biên Phủ” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (NXB QĐND- 2001), có đoạn viết: “Sẽ là một thiếu sót nếu không nhắc ở đây một sáng kiến đã mang lại sự cải thiện rất quan trọng trong đời sống các chiến sỹ ngoài mặt trận".
Đại tá, Giáo sư - Tiến sỹ Đặng Hiếu Trung, nguyên là chuyên viên đầu ngành của Khoa Tai mũi họng Bệnh viện Quân y 108 cho biết thêm: Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ông (Hoàng Cầm) là Đội trưởng Đội Điều trị 8, thuộc Đại đoàn 308. Đội điều trị 8 đóng cạnh suối Hồng Lếch, cách hầm Đờ Cát chỉ 4 km đường chim bay về phía tây. Đội Điều trị 8 có trên 100 người cộng với thương binh vì thế mặc dầu trong hoàn cảnh chiến trường, khó khăn, thiếu thốn, bom đạn của kẻ thù nhưng Tiểu đội trưởng nuôi quân Hoàng Cầm cùng tổ nuôi quân vẫn đảm bảo cơm nóng, canh ngọt cho Đội và thương binh.
4. Cuộc đời vất vả của cha đẻ "Bếp không khói"
Sau 16 năm phục vụ trong quân đội, Hoàng Cầm được phục viên khi đang giữ cấp bậc đại uý. Về làng Đồi Mây, Tam Đảo là quê ngoại của Hoàng Cầm. Về quê, ngày ngày vợ chồng ông lên đồi phát cỏ, cuốc đất trồng chè, sắn. Đất ở đây đá sỏi, bạc màu, làm lụng vất vả nhưng cuộc sống dân làng và gia đình ông quanh năm vẫn nghèo đói. Nhưng cái đói không trói nổi ông, ngay trong những năm sáu mươi, Hoàng Cầm đã xoay xở, tìm cách làm kinh tế để tự cứu mình và cứu dân làng. Ông chuyển sang làm que kem bán cho các cơ sở sản xuất ở Hà Nội và Vĩnh Yên để kiếm sống.
Bán kem que, ngày ngày phải lang thang khắp đây đó tìm nơi tiêu thụ rất vất vả. Sau ba năm bán que kem thu nhập thất thường, Hoàng Cầm lại chuyển sang mở xưởng nấu nước chấm (nước mari) và làm miến đao. Làm nước chấm và miến thu nhập tạm ổn, cuộc sống gia đình ông đã vượt qua những ngày đói kém.
Vợ Hoàng Cầm đau yếu luôn nên tất tật công việc nặng nhọc trong nhà đều dồn lên vai ông. Phải lao động quần quật, ông mới nuôi nổi năm miệng ăn. Khi người con trai duy nhất của vợ chồng ông là Hoàng Thư khôn lớn, những tưởng Thư sẽ gánh vác công việc nặng nhọc để bố đỡ vất vả, nhưng năm đó, cuộc kháng chiến chống Mĩ đang khốc liệt, ông Hoàng Cầm đã động viên con trai lên đường xung trận. Trước ngày nhập ngũ, ông dặn con cứ yên tâm đi, bố tuy sức yếu rồi nhưng vẫn cố gắng làm lụng để nuôi mẹ và các em con được, chiến trường đánh Mĩ chắc chắn sẽ ác liệt hơn thời đánh Pháp… Con trai ra đi một lèo cho đến ngày giải phóng miền Nam, ông ở nhà vật lộn với cuộc sống gian nan giữa vùng quê nghèo đói của thời kì bao cấp. Tuổi cao, ngày càng yếu, Hoàng Cầm không còn đủ sức làm xì dầu, miến đao nữa, ông tìm lên một ngôi đền thờ Đức Thánh Trần trên núi Tam Đảo, phục vụ đèn nhang, hương khói, quét dọn và trông coi đền. Gặp những người dân sinh sống quanh đền, họ kể, ngày ngày ông dậy từ tinh mơ, quét dọn, nhặt cỏ, tưới cây, lau bệ Phật, sắp hương, nến để người thập phương lên tham quan, nhang khói Đức Thánh. Không phải nhà sư tu hành chính quả, nhưng cái tâm của ông với ngôi đền, với dân làng khiến ai lui tới cũng đều kính nể. Họ gọi ông với những cái tên thân thuộc như: Hoàng Cầm giữ đền, ông từ Cầm...
Chị Hoàng Thị Định, con gái ông Hoàng Cầm hiện ở thị trấn Tam Đảo kể với chúng tôi: “Một hôm tôi lên đền giúp đỡ bố, gần trưa có đoàn cán bộ từ Hà Nội lên Tam Đảo tham quan và vào thắp hương Đức Thánh Trần, có ông cán bộ ăn mặc chỉnh tề, đầu đội mũ phớt, đeo kính trắng, sau khi thắp hương, quay ra cứ chằm chằm nhìn bố tôi. Lúc đó bố tôi đang mải quét lá khô dưới gốc cây đại. Ông cán bộ bỗng kêu lên: Anh Cầm hả? Ông cán bộ tháo kính ra, cái chổi trên tay bố tôi rơi xuống đất, hai người ôm chặt lấy nhau. Sao anh lại ở đây, anh Cầm? Rồi ông quay ra giới thiệu với những người cùng đi: Đây là anh Hoàng Cầm, bạn cùng đơn vị với tôi, người chế tạo ra bếp Hoàng Cầm nổi tiếng thời chống Pháp đấy. Mọi người vây quanh, hình như họ đều đã từng nghe tiếng cái bếp Hoàng Cầm của bố tôi. Có người đi bộ đội từng nấu ăn bằng bếp Hoàng Cầm, được thấy tác giả chế tạo ra cái bếp nổi tiếng, họ chăm chú nhìn bố tôi vẻ thán phục. Ông cán bộ buông bố tôi ra hỏi: Anh ở đền này lâu chưa? Hơn chục năm rồi - Bố tôi nói. Ông ta tròn mắt: Sao anh không chuyển ngành hay đi làm một nghề gì đó mà lại ở chùa? Tôi đã làm nhiều nghề rồi. Giờ đây sức yếu, ở đền cái tâm mình nó tĩnh tại, tôi thấy khỏe ra. Ông cán bộ nói: Anh hay thật, người ta mong có thành tích xuất sắc để được làm quan, có tiền, có chức, anh lại vào chùa để được hưởng tĩnh tâm. Và ông ta quả quyết: Không. Người “vĩ đại” như anh, người “đẻ” ra bếp Hoàng Cầm cho anh nuôi toàn quân không thể đi quét chùa. Về Hà Nội, tôi sẽ xin cho anh công việc khác. Bố tôi lắc đầu: Cảm ơn anh. Ước nguyện của tôi giờ chỉ mong mình sống khỏe mạnh. Làm được việc gì có ích cho dân, cho nước thì tôi làm. Bố tôi bảo, ông bạn gặp bố tôi hôm đó là cán bộ cấp Vụ trưởng. Về sau không thấy ông ta liên lạc lại, tôi nói hay ông ấy quên bố, bố tôi bảo, ông ấy làm lãnh đạo công việc bận chứ ông không quên đâu vì ngày ở đơn vị hai người rất thân nhau mà”.
*
* *
Mười lăm năm hương khói trên cõi “niết bàn”, tuổi cao, đau yếu luôn, ông Hoàng Cầm không còn đủ sức coi đền Đức Thánh Trần núi Tam Đảo nữa. Lộc Thánh và sự giúp đỡ của địa phương cũng không cưu mang nổi ông lúc cuối đời. Ông về Hà Nội nương nhờ người con trai Hoàng Thư. Sau hơn 10 năm chiến đấu ở chiến trường B3, Thư xuất ngũ về học sư phạm rồi làm giáo viên trường trung học phổ thông Phan Đình Phùng, Hà Nội. Đồng lương giáo viên ít ỏi, phải nuôi vợ không việc làm cùng con nhỏ và người bố già bệnh tật, hoàn cảnh gia đình Hoàng Thư thật khốn khó. Thương con, ông Hoàng Cầm không muốn mình thành gánh nặng cho con nhưng chẳng còn cách nào. Cuộc sống kéo dài ngày một chồng chất khó khăn, ông đành viết một lá đơn đề nghị cấp trên cứu giúp. Nhưng vốn là người chỉ biết tự lực vượt khó, không bao giờ đòi hỏi kêu ca nên viết xong, ông ngần ngại rồi lại xé đi.
Một người bạn của Hoàng Cầm khuyên: “Cái chất trong con người ông là chất Hoàng Cầm. Nhưng Hoàng Cầm cũng là con người. Mình hoạn nạn, mình kêu, đấy mới là con người”. Nghe lời bạn, cộng với gia cảnh bức thúc quá, nên lá đơn thứ 2 đề ngày 15/3/1994 của Hoàng Cầm có đoạn: “... Cả gia đình tôi bốn bố con, ông cháu ở nhà một “mái vẩy” 9m2 của trường Phổ thông trung học Phan Đình Phùng cho mượn. Tôi không biết nằm dọc, nằm nghiêng, ngửa thế nào cho tiện. Các cháu học sinh của con tôi, bạn bè, đồng đội đến thăm khi đau yếu, thật ái ngại, xin ngồi xuống đất. Lúc ốm chìa tay bấu đồng lương ít ỏi của con để mua thuốc, thật không đành. Cực chẳng đã, có lần tôi chống gậy đến một bệnh viện khám bệnh và xin thuốc, một nhân viên phòng khám bảo: Bác phải có sổ, có giấy tờ, chế độ mới được khám cấp thuốc. Tôi trình bày, tôi là Hoàng Cầm, bộ đội phục viên ở với con nên không có giấy tờ gì. Họ nói: Một Hoàng Cầm chứ mười Hoàng Cầm cũng vậy thôi. Tôi viết lá đơn này đề nghị cấp trên xét cấp cho tôi một cái sổ khám bệnh, một tiêu chuẩn nhà đất như hàng vạn người khó khăn khác để ổn định sức khoẻ đoạn đời còn lại. Năm nay tôi đã 81 tuổi. Để khỏi có lúc chợt nghĩ “nếu có mệnh hệ nào” tôi không muốn nằm tại 9m2 nhà đi mượn cho con cháu khỏi phiền lòng...”.
Nỗi lòng ấy âu cũng là cái chất rất con người trong Hoàng Cầm. Và chính nó đã làm nên một Hoàng Cầm chân thật và cao thượng, làm rung động trái tim của không ít người. Lời thỉnh cầu của ông đã được những người làm chính sách hết lòng giúp đỡ.
Khi tôi gặp Thiếu tướng Nguyễn Thế Kỷ, nguyên Cục trưởng Cục Quản lí Hành chính Bộ Tổng tham mưu, hiện sống tại phường 2, Quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh, ông kể lại:
- Ngày ấy, nhận được đơn và ý kiến của cấp trên, chỉ trong một tuần lễ, chúng tôi đã lo chu tất cho ông Hoàng Cầm. Đã giải quyết cho ông một căn nhà 43m2 ở khu tập thể 28 Điện Biên Phủ, Hà Nội, một quyển sổ khám chữa bệnh tại Bệnh viện Quân đội và tạo việc làm cho người con dâu của ông là chị Minh, vợ anh Hoàng Thư vào giữ trẻ tại cơ quan.
Nhưng ông Hoàng Cầm hưởng cuộc sống đầm ấm trong căn nhà mới được gần ba năm thì đi theo tiên tổ. Ra đi, ông để lại cho đời một công trình vô giá. Dẫu mai này, có thể người ta lại quên cái tên người chiến sĩ nuôi quân Hoàng Cầm nhưng bếp Hoàng Cầm của ông, cái bếp đã đi vào lịch sử hai cuộc kháng chiến vệ quốc của dân tộc, sẽ là cái bếp huyền thoại trong lòng tất cả mọi người.
5.Phân loại:
Theo quy mô, cấu tạo bếp được phân chia thành 3 loại: Bếp Hoàng cầm cấp 1, cấp 2, cấp 3.
- Bếp cấp 1: Bep cấu tạo gồm hầm bếp, hệ thống thoát khói và mái che tạm thời bằng tăng bạt, lá cây. Bếp được sử dụng trong thời gian tạm dừng khi hành quân còn cách xa địch, ít phi pháo hoặc trong chiến đấu tiến công.
- Bếp cấp 2: Cũng gồm 3 phần như bếp cấp 1 nhưng ở bếp Hoàng cầm cấp 2 do đưa cả khu vực đun nấu xuống hầm nên khối lượng đào lón hơn. Có chỗ để thực phẩm, có bể nước, trên lát bàng tre, gỗ chắc chắn, lấp đất dày 0,5m trở lên.
- Bếp cấp 3: Tương tự như bếp cấp 2, có thêm hầm chứa lương thực, thực phẩm và hầm ngủ của nuôi quân, mái che hầm bếp bằng bê tông, kết hợp gỗ, đất dày trênlm. Bếp dùng trong chiến đấu phòng ngự hoặc trú quân dài ngày gần địch, nơi địch đánh phá ác liệt.
Trong mỗi loại bếp trên thì tùy thuộc vào vị trí của hố đặt nồi với nhau lại chia làm hai kiểu chữ I và chữ A.
6. Cấu tạo bếp Hoàng Cầm cấp 1
Bếp có 5 bộ phận chính:
- Bếp
a. Bệ bếp: Nếu là đất bằng thì mặt bệ bếp cần đào thấp xuống 15- 20 cm kích thước dài l,4m, rộng 0,8m, cao 0,8m, phía dưới chân bệ bếp có một cái gờ rộng 10cm để đỡ củi dọc theo chiều dài bệ bếp.
b. Hố đặt nồi: Lấy nồi đặt lên bệ bếp, khoanh đánh dấu rồi khoét dần, khi đặt nồi xuống, nồi còn thừa lên khoảng 5cm là vừa, xung quanh mép hố sát khít vào thành nồi. Trong lòng hố khoét hình tang trống, sửa cho nhẵn, tạo ra một khoảng cách với thành nồi để khi đốt ngọn lửa lùa đều xung quanh, tận dụng lượng nhiệt, đun chóng sôi. Đáy hố cách đáy nồi khoảng 20-25cm. Hai nồi cách nhau khoảng 15cm.
c. Cửa bếp: Cửa bếp được khoét cân đối với mặt nồi có dạng hình vòm loa kèn (To trong, ngoài nhỏ), rộng 20-25cm, cửa bếp nhỏ hơn khoảng cách từ đáy nồi tới đáy hố đặt nồi 5cm.
d. ống khói: Đào phía trong đáy hố đặt nồi, vòng lên phía trên bắt vào ống khói, khoét vào ống khói cao dần lên rãnh dẫn khói, bảo đảm luồng khói thoát ra đi được dề dàng.
- Hố ngồi của người nấu.
Để nuôi quân ngồi đun nấu, đồng thời che chắn ánh lửa và che chắn bảo đảm an toàn cho nuôi quân. Hố có chiều dài bằng bề dài bệ bếp, rộng khoảng 0,80m và sâu tùy yêu cầu, nhưng tối thiểu phải bằna 0,95m
- Hệ thống dẫn khói, chứa khói, tản khói.
Hệ thống thoát khói có tác dụns hút khi tạo ra sự đối lưu không khí giúp cbo bếp cháy tốt và dẫn khói thoát ra tạo thành làn khói mỏng bav là là trên mật đãL Hệ thống thoát khói gồm 3 bộ phận: hầm chứa khói, rãnh dần khói và tia tản kbói.
+ Rãnh dẫn khói: có tiết diện 30 X 30 Cm, chiều dài từ ổng khỏi đèn hãm chứa khói thứ nhất 2,5 đến 3m. thẳng góc và cân đối với chiều dài bệ bếp. hướng thoai thoải vươn lên. Góc vươn 30 độ là tốt nhất.
+ Hầm chứa khói: Rãnh dẫn khói đưa khói tới 2 hầm chứa khói, hầm thứ nhất có kích thước 0,80x0,80x0,80m. Hầm thứ 2 cách hầm thứ nhất 3m có kích thước 1,0x1,0x1,0m.
+Tia tản khói: Các tia tản khói bắt đầu từ hầm chứa khói thứ 2 Mỗi bếp thường có 3 tia tản khói, có tiết diện 20 X 20 cm hoặc 25 X 25 Cm, dài ít nhất là 7m, đầu tia tản khói khuất vào trong bụi rậm hoặc lùm cây.
+ Cây, cành để lót và lấp đất: Hệ thống thoát khói được lát phía trên bằng cây, que tươi, phủ một lớp lá tươi và trên cùng là một phủ một lớp đất tơi xốp để cho khói thoát ra thành làn khói mỏng.
- Mái che, lợp bếp.
Nhằm giữ ánh lửa không để lọt ra ngoài và đun nấu được trong mọi điều kiện thời tiết. Có thể dùng tăng bạt có khung là tre, nứa, cây gỗ nhỏ căng ra che kín bếp hoặc dùng tre, nứa lá để lợp. Yêu cầu ban đêm không để lọt ánh sáng ra ngoài và ra vào thuận tiện.
- Rãnh thoát nước.
Phòng khi trời mưa nước tràn xuống bếp, cần đào xung quanh bếp hệ thống rãnh thoát nước để dẫn nước chảy ra ngoài nhất là khi đào bếp ở sườn đồi phải đắp bờ cao, chắc chắn để giữ nước khỏi tràn vào gay ngập và vỡ bếp.
7. Cách đun và một số điểm cần lưu ý.
a. Cách đun.
- Chuẩn bị: Trước khi nấu ăn phải kiểm tra lại các bộ phận của bếp, nhất là hệ thống thoát khói xem đã bảo đảm yêu cầu kỹ thuật chưa. Củi đun bếp phải khô, chẻ nhỏ, cắt ngắn vừa phải, chuẩn bị đầy đủ LTTP.
- Nhóm bếp: Dùng củi khô chẻ nhỏ để châm lửa nhóm bếp ngay trong buồng đốt, khi bếp đã cháy đều mới tiếp dần củi vào. Khi nhóm bếp phải kiểm tra tình trạng thoát khói của bếp để xử lý kịp thời, bảo đảm yếu tố bí mật.
- Quá trình nấu ăn: Phải tiếp củi từ tò với lượng vừa phải, không để củi cháy ra ngoài hoặc để lửa hắt sáng ra ngoài cửa bếp. Thường xuyên theo dõi tình trạng thoát khói của bếp để xử ký kịp thời. Điều chỉnh nhiệt độ đun nấu bằng cách tăng, giảm lượng củi tiếp vào hoặc dùng quạt tay để quạt gió vào cửa bếp.
- Bếp cấp 1: Bep cấu tạo gồm hầm bếp, hệ thống thoát khói và mái che tạm thời bằng tăng bạt, lá cây. Bếp được sử dụng trong thời gian tạm dừng khi hành quân còn cách xa địch, ít phi pháo hoặc trong chiến đấu tiến công.
- Bếp cấp 2: Cũng gồm 3 phần như bếp cấp 1 nhưng ở bếp Hoàng cầm cấp 2 do đưa cả khu vực đun nấu xuống hầm nên khối lượng đào lón hơn. Có chỗ để thực phẩm, có bể nước, trên lát bàng tre, gỗ chắc chắn, lấp đất dày 0,5m trở lên.
- Bếp cấp 3: Tương tự như bếp cấp 2, có thêm hầm chứa lương thực, thực phẩm và hầm ngủ của nuôi quân, mái che hầm bếp bằng bê tông, kết hợp gỗ, đất dày trênlm. Bếp dùng trong chiến đấu phòng ngự hoặc trú quân dài ngày gần địch, nơi địch đánh phá ác liệt.
Trong mỗi loại bếp trên thì tùy thuộc vào vị trí của hố đặt nồi với nhau lại chia làm hai kiểu chữ I và chữ A.
6. Cấu tạo bếp Hoàng Cầm cấp 1
Bếp có 5 bộ phận chính:
- Bếp
a. Bệ bếp: Nếu là đất bằng thì mặt bệ bếp cần đào thấp xuống 15- 20 cm kích thước dài l,4m, rộng 0,8m, cao 0,8m, phía dưới chân bệ bếp có một cái gờ rộng 10cm để đỡ củi dọc theo chiều dài bệ bếp.
b. Hố đặt nồi: Lấy nồi đặt lên bệ bếp, khoanh đánh dấu rồi khoét dần, khi đặt nồi xuống, nồi còn thừa lên khoảng 5cm là vừa, xung quanh mép hố sát khít vào thành nồi. Trong lòng hố khoét hình tang trống, sửa cho nhẵn, tạo ra một khoảng cách với thành nồi để khi đốt ngọn lửa lùa đều xung quanh, tận dụng lượng nhiệt, đun chóng sôi. Đáy hố cách đáy nồi khoảng 20-25cm. Hai nồi cách nhau khoảng 15cm.
c. Cửa bếp: Cửa bếp được khoét cân đối với mặt nồi có dạng hình vòm loa kèn (To trong, ngoài nhỏ), rộng 20-25cm, cửa bếp nhỏ hơn khoảng cách từ đáy nồi tới đáy hố đặt nồi 5cm.
d. ống khói: Đào phía trong đáy hố đặt nồi, vòng lên phía trên bắt vào ống khói, khoét vào ống khói cao dần lên rãnh dẫn khói, bảo đảm luồng khói thoát ra đi được dề dàng.
- Hố ngồi của người nấu.
Để nuôi quân ngồi đun nấu, đồng thời che chắn ánh lửa và che chắn bảo đảm an toàn cho nuôi quân. Hố có chiều dài bằng bề dài bệ bếp, rộng khoảng 0,80m và sâu tùy yêu cầu, nhưng tối thiểu phải bằna 0,95m
- Hệ thống dẫn khói, chứa khói, tản khói.
Hệ thống thoát khói có tác dụns hút khi tạo ra sự đối lưu không khí giúp cbo bếp cháy tốt và dẫn khói thoát ra tạo thành làn khói mỏng bav là là trên mật đãL Hệ thống thoát khói gồm 3 bộ phận: hầm chứa khói, rãnh dần khói và tia tản kbói.
+ Rãnh dẫn khói: có tiết diện 30 X 30 Cm, chiều dài từ ổng khỏi đèn hãm chứa khói thứ nhất 2,5 đến 3m. thẳng góc và cân đối với chiều dài bệ bếp. hướng thoai thoải vươn lên. Góc vươn 30 độ là tốt nhất.
+ Hầm chứa khói: Rãnh dẫn khói đưa khói tới 2 hầm chứa khói, hầm thứ nhất có kích thước 0,80x0,80x0,80m. Hầm thứ 2 cách hầm thứ nhất 3m có kích thước 1,0x1,0x1,0m.
+Tia tản khói: Các tia tản khói bắt đầu từ hầm chứa khói thứ 2 Mỗi bếp thường có 3 tia tản khói, có tiết diện 20 X 20 cm hoặc 25 X 25 Cm, dài ít nhất là 7m, đầu tia tản khói khuất vào trong bụi rậm hoặc lùm cây.
+ Cây, cành để lót và lấp đất: Hệ thống thoát khói được lát phía trên bằng cây, que tươi, phủ một lớp lá tươi và trên cùng là một phủ một lớp đất tơi xốp để cho khói thoát ra thành làn khói mỏng.
- Mái che, lợp bếp.
Nhằm giữ ánh lửa không để lọt ra ngoài và đun nấu được trong mọi điều kiện thời tiết. Có thể dùng tăng bạt có khung là tre, nứa, cây gỗ nhỏ căng ra che kín bếp hoặc dùng tre, nứa lá để lợp. Yêu cầu ban đêm không để lọt ánh sáng ra ngoài và ra vào thuận tiện.
- Rãnh thoát nước.
Phòng khi trời mưa nước tràn xuống bếp, cần đào xung quanh bếp hệ thống rãnh thoát nước để dẫn nước chảy ra ngoài nhất là khi đào bếp ở sườn đồi phải đắp bờ cao, chắc chắn để giữ nước khỏi tràn vào gay ngập và vỡ bếp.
7. Cách đun và một số điểm cần lưu ý.
a. Cách đun.
- Chuẩn bị: Trước khi nấu ăn phải kiểm tra lại các bộ phận của bếp, nhất là hệ thống thoát khói xem đã bảo đảm yêu cầu kỹ thuật chưa. Củi đun bếp phải khô, chẻ nhỏ, cắt ngắn vừa phải, chuẩn bị đầy đủ LTTP.
- Nhóm bếp: Dùng củi khô chẻ nhỏ để châm lửa nhóm bếp ngay trong buồng đốt, khi bếp đã cháy đều mới tiếp dần củi vào. Khi nhóm bếp phải kiểm tra tình trạng thoát khói của bếp để xử lý kịp thời, bảo đảm yếu tố bí mật.
- Quá trình nấu ăn: Phải tiếp củi từ tò với lượng vừa phải, không để củi cháy ra ngoài hoặc để lửa hắt sáng ra ngoài cửa bếp. Thường xuyên theo dõi tình trạng thoát khói của bếp để xử ký kịp thời. Điều chỉnh nhiệt độ đun nấu bằng cách tăng, giảm lượng củi tiếp vào hoặc dùng quạt tay để quạt gió vào cửa bếp.
b. Một số điểm cần lưu ý:
Trong quá trình sử dụng bếp thường gặp một số sự cố như: bếp khó cháy là do bếp quá ẩm, củi bị ướt hoặc hệ thống thoát khói bị tắc, phải dùng củi khô đốt sấy bếp, sấy củi cho khô, tìm và sửa lại chỗ hệ thống thoát khói bị tắc. Lửa hắt sáng ra ngoài là do củi cháy gần cửa bếp hoặc bếp bị gió thổi ngược lại. Để khắc phục hiện tượng này cần đẩy củi sâu vào trong cửa bếp hoặc dụng vật liệu không cháy đế che cửa bếp...Đe đào bếp nhanh cần chuấn bị sẵn dụng cụ (Cuốc, xẻng, dao...) và phân công họp lí cụ thể thành các bộ phận, bộ phận nào đào xong trước sẽ điều chỉnh sang bộ phận khác. Ngoài bếp còn phải đào hố đổ rác, hố vệ sinh, hố chứa nước, giàn chia thức ăn, pha thái thực phẩm.
.
Comments
Post a Comment